Theo nhiều tiêu chí, cấu trúc thành phần kinh tế được nhận thức. Thông thường, cấu trúc này được nhận thức dưới tiêu chí tổng thể là tổng sản phẩm nội địa (GDP).
Các chỉ tiêu thống kê cho thấy, cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế năm 1986 và năm 2013 như sau:.

Nguồn số liệu: TCTK |
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam có hai hình thức sở hữu, hai loại hình kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và tập thể. Chỉ có một số ít là loại hình kinh tế cá nhân. Tuy nhiên, chưa tồn tại kinh tế tư nhân và kinh tế đầu tư nước ngoài.
Nhà nước chiếm tỷ trọng vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, với hàng chục nghìn doanh nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, những doanh nghiệp này không thể được coi là độc lập vì chúng không được phép tự quyết định. Tất cả các yếu tố từ nguồn nhân lực, vốn đầu tư, nguyên liệu sản xuất cho đến quá trình sản xuất và kinh doanh, sản phẩm và số lượng sản xuất, nơi tiêu thụ, giá cả cũng như kết quả sản xuất và kinh doanh đều được quản lý và điều hành bởi Nhà nước.
Gần kết thúc khu vực bên ngoài Nhà nước bị chiếm giữ bởi kinh tế đồng thể, bao gồm hàng ngàn liên hiệp sản xuất thuộc đủ các lĩnh vực. Kinh tế này được gọi là kinh tế đồng thể, dựa trên nguyên tắc tự nguyện nhưng phương án phân phối được thông qua bởi Nhà nước. Vật liệu chủ yếu được cung cấp bởi Nhà nước và sản phẩm được thu mua bởi Nhà nước. Xã cư ăn theo quy định lượng.
Tăng trưởng kinh tế chậm, đôi khi suy thoái do khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu rộng tiềm ẩn từ cuối những năm 1970, bùng phát trong những năm 1980, kéo dài đến đầu những năm 1990 của thế kỷ trước. GDP trung bình đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái, nếu năm 1985 còn đạt 233,3 USD, thì năm 1988 chỉ còn 86 USD/người, thuộc loại thấp nhất trên thế giới. Tỷ lệ thất nghiệp năm 1989 tăng lên trên 13%, lạm phát và nhập siêu rất cao.
Thành phần kinh tế đã trải qua một quá trình chuyển biến đáng kể nhờ sự cải cách và tham gia vào các hoạt động quốc tế (bắt đầu từ năm 1986).
Tỷ lệ phân chia GDP giữa khu vực Nhà nước đã giảm xuống dưới 1/3, trong khi khu vực tập thể chỉ chiếm 5,05% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20%. Tỷ lệ phân chia cho khu vực kinh tế tư nhân chỉ là hơn 11%.
Vào năm 1986, lao động thuộc khu vực do Nhà nước quản lý chiếm tỷ lệ 15,5%, trong khi khu vực do các tổ chức khác quản lý chiếm tỷ lệ 84,5%. Hiện tại, tỷ lệ lao động trong khu vực Nhà nước chỉ còn 10,3%, trong khi tỷ lệ lao động trong khu vực khác là 86,4%, và tỷ lệ lao động có vốn đầu tư từ nước ngoài chiếm 3,3%. Cơ cấu của ngành kinh tế liên quan đến lao động đang thay đổi.
Bằng cách tận dụng tài nguyên của các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đã xảy ra sự chuyển dịch vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực Nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đã giảm từ 54,3% trong thời kỳ 1996-2000 xuống còn 39,3% trong thời kỳ 2011-2013. Trong khi đó, tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực không thuộc Nhà nước đã tăng từ 24,1% lên 38,1%, và của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 15,7% trong thời kỳ 2001-2005 lên 22,6% trong thời kỳ 2011-2013.
Tỷ lệ đóng góp của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (TMBL) đã giảm từ 40,7% năm 1985 xuống chỉ còn 10,2% vào năm 2013. Trong khi đó, tỷ trọng của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đã tăng lên 86,7% so với 59,3% trước đây. Trong số đó, tỷ lệ của kinh tế tập thể giảm xuống chỉ còn 1%, trong khi tỷ lệ của kinh tế tư nhân đã tăng lên trên dưới 1/3. Tỷ trọng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trước năm 1994 không có gì, nhưng hiện nay đã tăng lên 3,1%.
Có một số điểm đáng chú ý có thể suy ra từ quá trình chuyển đổi cơ cấu thành phần kinh tế trong vòng 30 năm cải cách.
Việc thay đổi cấu trúc kinh tế đã kích hoạt tài nguyên (như lao động, vốn đầu tư…) Và giúp đất nước vượt qua tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội. Trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định (6,06%/năm), đặc biệt trong giai đoạn 1991-2005 với tốc độ 7,17%/năm, đã góp phần giảm bớt đói nghèo.
Vùng kinh tế nhà nước chiếm tỷ lệ lớn nhưng hiệu quả đầu tư lại thấp. Nguyên nhân chính là do tiến độ cổ phần hóa chậm, số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa từ năm 1992 đến 2000 là 588 DN, từ 2001 đến 2002 là 506 DN, năm 2003 là 621 DN, năm 2004 là 621 DN, năm 2005 là 813 DN, năm 2006 là 359 DN, năm 2007 là 116 DN, từ 2008 đến 2011 là 117 DN, năm 2012 là 13 DN. Năm 2013 vẫn chậm, năm 2014 có thể nhanh hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của Chính phủ.
Vùng địa lý cá nhân (hay còn được gọi là khu vực không chính thức) dẫn đến việc năng lực sản xuất và năng suất lao động vẫn thấp do diện tích lớn và phân tán. Thủ tục đăng ký doanh nghiệp và thuế cũng gặp khó khăn do sự phát triển và quản lý không được quy hoạch đúng đắn. Điều thứ ba là vùng địa lý này.
Khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng đáng kể trong ngành công nghiệp (trên dưới 45% giá trị sản xuất), đứng thứ tư và chiếm trên dưới 2/3 kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, đã có sự xâm phạm, thậm chí là chiếm đoạt khu vực trong nước khi kinh tế trong nước gặp khó khăn. Đồng thời, một số nhà đầu tư không chú ý đến việc bảo vệ môi trường hoặc sử dụng cách thức chuyển giá để trốn thuế.