Hỗ trợ học sinh hiểu rõ những điểm chính của bài viết, tài liệu về nội dung chính của bài “Chiếc thuyền ngoài xa” trong sách Ngữ văn lớp 12 gồm hai trang có đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương pháp diễn đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
Con thuyền đang xa xôi.
Buổi giảng: Con thuyền xa xăm.

Tìm hiểu tổng quan về tài liệu văn bản.
1. Tác phẩm văn học ngắn ”Chiếc thuyền ngoài xa”.
Người thông minh là cấp trên của tôi, và hắn ta có nhiều ý tưởng độc đáo đến mức khiến chúng tôi trong công ty mệt mỏi.
Anh đã thể hiện rằng anh không hài lòng với phương pháp kinh doanh hiện tại cách đây khoảng năm tháng trước để chuẩn bị cho tấm lịch năm tiếp theo. “Năm sau, chúng ta sẽ cung cấp cho mỗi hộ gia đình một bộ sưu tập chuyên đề về đại dương và tàu thuyền,” anh nói một cách quyết đoán, “không cần phải giữ nguyên lối làm việc cũ. Chúng ta cần một bộ sưu tập chuyên đề.” Bộ sưu tập này sẽ bao gồm mười hai tháng với 12 bức ảnh nghệ thuật về đại dương và tàu thuyền, không có con người, hoàn toàn yên tĩnh.
Sau nhiều suy nghĩ và lựa chọn cảnh, chúng tôi đã mang theo máy ảnh và đi khắp nơi trong suốt một năm. Hiện nay, tất cả những bức ảnh đen trắng được chụp được sắp xếp trên hai bàn ghép lại. Tôi rất hài lòng vì đã có được nó và tin rằng không cần phải tiếp tục đi chụp ảnh bổ sung như trước đây.
Khi tôi được hỏi quay sang, trưởng phòng đột nhiên nhếch môi sau mắt kính già, nhìn thẳng vào đôi mắt thông minh của tôi trước khi cuộn khói thuốc lá phát tán.
Bây giờ đã là tháng mấy vậy?
Tháng 7. – Tôi trả lời với một cảm giác không quá tự tin.
Tháng này ở vùng biển vẫn có sương không?
Chỉ khi có cơn bão hoặc biển động thì mới có sương. Muốn thu sương phải đợi đến tháng Ba.
Trưởng phòng Phùng có vẻ nhận ra tâm trạng của tôi một cách rõ ràng, vì vậy ông ấy nói và lộ ra khuôn mặt đầy đau khổ. Ông giúp tôi thêm một cảnh sáng sương trong bộ phim. Tôi đề nghị cho ông một tháng, liệu có đủ không?… Xin chào anh Phùng.
Tôi nhặt được một tấm ảnh ngay trong tầm tay, trời ơi! Với hàng trăm tấm ảnh đẹp, chụp công phu như thế này mà anh… Anh giật lấy lời tôi: “Đẹp thì đẹp thực. Và đặc biệt là lại có tâm hồn. Đúng là những tấm ảnh nghệ thuật.” Tuy nhiên, năm nay các anh đi về khác so với những năm trước, tấm ảnh nào cũng tôi đều thích. Nhưng vẫn còn thiếu một tấm, không thể đủ cho mười hai tháng.
Bản chất của con người thường hay lười biếng, vì vậy đôi khi bị áp buộc mới có thể hoàn thành một công việc nào đó. Trong cuộc sống, điều này thường xảy ra.
Sau một quãng thời gian năm ngày, tôi đã đặt chân đến một vùng biển cách Hà Nội ngoài khoảng sáu trăm cây số. Tôi đã mang theo chiếc máy ảnh và đến một đoạn bờ cát nằm giữa thời điểm chuyển từ đêm sang sáng. Đúng lúc đó, những chiếc thuyền đánh cá bằng vó bè xuất hiện trong khoảng không gian lờ mờ của bình minh.
Cuộc đời của chúng tôi, những người lính đã từng chiến đấu chống lại Mỹ, sau hơn bảy năm có không ít những sự cố và bất ngờ. Trong chuyến đi này, tôi muốn quay trở lại một vùng đất chiến trường cũ. Tại đó, tôi có một người bạn của mình, người đồng hương và đồng đội đã cùng nhau trải qua mười năm trên rừng A So. Trước đây, hắn ta là trung đội phó bộ binh nổi tiếng với tính cách hài hước, đùa nghịch. Nhưng bây giờ, ôi trời ơi, tại vùng biển đó, hắn đang làm một công việc nghiêm túc đến mức không ai có thể tưởng tượng được. Trong thực tế, hắn ta đã làm công việc đó trong hai ba năm qua và không phải là một thứ dễ dàng.
Tại đó chưa phải là biển mà chỉ là một miền đất liền bị phá hủy, lan rộng như trò chơi trốn tìm giữa các làng, khu dân cư và chợ đầy nhộn nhịp trong một khu vực rộng mấy chục dặm. Nếu bỏ qua những chiếc xe tăng bị bỏ lại từ thời “tháng ba bảy nhăm”, miền đất phá này có một cảm giác phẳng lặng và mát mẻ như mùa thu đang đến. Chỉ vào giữa tháng bảy mới có sương mù, nhưng đó là một địa điểm nước tôi vừa mới đến để chụp hình thêm cho bộ sưu tập đẹp mơ mộng và hiếm có trên khắp bờ biển của đất nước. Mỗi buổi sáng, tôi bị cuốn hút bởi bầu trời không xanh biếc, cao thẳm và đậm màu xanh xám, như nó giảm xuống và đóng băng. Giữa bầu trời và nước, chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vớ bè đang nấu nướng giữa miền đất phá – chiếc thuyền im lìm như được dán vào cảnh vật êm đềm.
Gần như tôi đã sắp quyết định thêm vào hình ảnh một chiếc thuyền được đẩy xuống nước vào tháng bảy, trong ngày đầu tiên của tháng. Chiếc thuyền mới được xây dựng hoàn toàn từ gỗ và đã được phủ một lớp dầu thơm. Tôi đã lựa chọn một cậu bé khoảng năm tuổi, là con trai của một người đánh cá, với ngoại hình đầy đủ và đôi mắt đen. Cậu bé đã lội ra giữa những con sóng lớn, tung ra một nắm phoi bào thật xa. Trong khi đó, trên bờ, bố mẹ và những người lớn khác đã xếp hàng dọc theo hai bên chiếc thuyền mới. Tôi chỉ cần chụp những chiếc vai trần của ngư dân cùng với đôi chân to bè của họ đặt lên cát.
Với không khí ồn ào và thiếu tế nhị, tôi nhanh chóng rời xa phong cảnh đó. Thật đáng tiếc và đầy thất vọng khi tôi không thể bắt lấy khoảnh khắc chiếc thuyền lao xuống mặt nước, làm vỡ từng đợt sóng trắng xóa.
Tôi quyết định không lấy cảnh sương và cát như trưởng phòng ở nhà gợi ý. Mặc dù có những đêm thật thú vị, tôi vẫn ngủ giữa bãi cát ven bờ biển. Tôi được rủ rê bởi một cậu bé xấu xí nhưng có trí nhớ khác thường. Cậu bé là cháu ngoại của một ông lão làm nghề sơn tràng ở miền rừng A So. Hai ông cháu lái một chiếc xe Reo của gia đình chở gỗ về bán cho xưởng đóng thuyền. Trong những đêm như thế, cậu bé và tôi ngồi kê đầu trên mười ngón tay đan vào nhau, nằm ngửa sóng đôi bên nhau. Chúng tôi hồi hộp chờ một tiếng vạc rất nhỏ kêu thảng thốt trong bầu sương tít trên cao. Tiếng vạc nghe như vọng về từ một thời xa xưa, cái thời chung quanh vùng biển này chỉ có lau lách và tiếng sóng vỗ, chưa có người.
Tôi quyết định ghi vào lịch tháng bảy của năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh. Mang theo máy ảnh suốt một tuần, tìm kiếm và ai đã sử dụng máy ảnh chuyên nghiệp đều biết đó là một cảnh đã được khai thác quá nhiều – một chủ đề đã để lại những bức ảnh tuyệt đẹp, đầy cảm xúc của những nhiếp ảnh gia danh tiếng.
Những âm thanh náo nhiệt phát ra từ xa vang lên tai tôi, có thể do nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè trong khu vực đó. Tôi luôn thấy thú vị và muốn thử sức bằng việc khám phá những điều bí ẩn đó. Âm thanh đó có một vài điều kỳ lạ và ma quái, chỉ có thể nghe thấy vào những đêm tối sâu và chỉ nghe được khi ở gần khu vực đó. Trước khi mùa thu và mùa giá rét đến, các loài chim trong rừng đã bắt đầu di cư và xây tổ trên các cây dẻ um tùm. Lúc đó, thằng Phác – một đứa trẻ từ rừng đã đến ở bên cạnh tôi và kể về cuộc sống của chúng tôi trên rừng. Sau khi kể xong, thằng bé đã ngủ say bên cạnh tôi.
Tôi đã tìm hiểu được một chút về phương pháp kinh doanh lâu đời của các “hợp tác xã” bao gồm các tàu đánh cá không có bến cảng, không chỉ trong những ngày đầu tiên khi họ đến, mà sau đó, khi họ đã chụp được hầu hết tất cả cảnh quay. Thông thường, mỗi tàu là một gia đình, ngoài tàu lớn còn có vài chiếc thuyền nhỏ để di chuyển. Họ luôn hợp tác với nhau chỉ trong một đêm hoặc một ngày chứ không lâu dài. Cuộc sống của họ đầy biến động trên khắp vùng đất rộng lớn. Họ tổ chức lễ cưới, sinh con và sống trên một tàu. Quê hương của họ rộng lớn trên khắp đất nước chứ không chỉ giới hạn ở một khu vực nào đó. Họ không có hàng xóm.
Tôi mở mắt vào một buổi sáng. Ánh sáng ban mai đã chiếu rọi khắp nơi và những ngôi sao đã biến mất hoàn toàn trên bầu trời. Các đám mây hình vỏ sò bắt đầu nổi lên và dần chuyển sang màu hồng. Trong khi đó, bề mặt biển đã hiện rõ. Thậm chí cả từ bờ, người ta cũng có thể nhìn thấy các vết nếp nhăn trên tấm thép xám đục. Tuy nhiên, âm thanh của những đợt sóng dữ dội trong đêm đã tan biến, biển bình lặng như một con sứa khổng lồ dạt vào bờ.
Một nhóm khoảng dăm chiếc thuyền vừa tắt ánh đèn, quan sát từ vị trí bãi đỗ xe tăng. Các chiếc lưới đã được treo giữa các tấm ván đã được tắt hết nhưng tiếng la hét vẫn vang vọng. Đó là những người được giao nhiệm vụ bắt cá bằng lưới. Hầu hết là phụ nữ và trẻ em, họ ngồi trên các chiếc thuyền nhỏ luôn trôi lắng lặng, thỉnh thoảng đi chơi mát mẻ trên một chiếc thuyền riêng. Tất cả đều sẵn sàng buông chèo và cầm hai gióng tre khô để đập vào lòng thuyền, có người vừa bơi vừa chèo và hét lên. Các chiếc thuyền đột nhiên tập trung lại từ bốn phía, rồi chèo đến khoảng cách trăm mét so với thuyền.
Ha ha ha…
Tôi đưa một chân xuống đất cát ẩm trong vài phút. Thiết bị đã đặt gần mắt tôi giống như một tay săn chỉ rình trong vài phút nữa con mồi sẽ xuất hiện. Tôi đợi cho đến khi năm sáu chiếc lưới vó đồng thời nâng lên từ từ.
Máy của tôi vang lên khi tôi tưởng tượng về những bức ảnh nghệ thuật của mình. Các bức ảnh đó sẽ được miêu tả bằng một vài chiếc thuyền và cảnh đan chéo của những tấm lưới đầy những giọt nước. Mỗi lưới sẽ được xem như một nốt nhạc trong một bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối. Bức ảnh tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt. Trong khoảng sáng đó, sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người phụ nữ đang cúi lom khom. Người phụ nữ đó vươn tay ra phía trước để kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước. Phía sau lưng của người phụ nữ là hình ảnh một ngư dân và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu thuyền. Họ sử dụng sức mạnh toàn thân để nâng lên hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.
Tôi đã tìm thấy một cấu trúc chặt chẽ chung quanh. Tôi tin vào khả năng đặc biệt của mình và sự chuyên nghiệp của tôi. Tôi cho rằng đối với các nhiếp ảnh nghệ thuật, nếu không có sự sắp xếp tài tình của ngẫu nhiên, thì dù có tài năng đến đâu thì họ cũng chỉ có thể tạo ra những bức ảnh vô hồn.
Đội hình của việc kinh doanh trôi nổi, lan tỏa nhanh chóng trên mặt nước giống như khi thu gọn. Đây là lần cuối cùng lưới được thả xuống. Chỉ có một khoảng trống trước mặt tôi trong nháy mắt.
Bấy giờ trời phủ một màu sương mù từ biển bay vào. Những giọt mưa nhỏ nhẹ rơi lác đác trên đầu. Tôi bước vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để nép mình tránh mưa. Khi đang thay phim, tôi nhìn lên và phát hiện điều kỳ lạ: một chiếc thuyền lưới vó đang chèo thẳng tới phía trước của tôi. Tôi suy đoán rằng đó chính là chiếc thuyền của nhóm đánh cá ban nãy.
Trước tôi là một bức tranh vẽ bằng mực tàu của một họa sĩ thời cổ, chưa bao giờ tôi thấy một cảnh đẹp như thế này trong suốt cuộc đời chụp ảnh của mình. Hình ảnh mũi thuyền mờ ảo in vào bầu không khí trắng sữa, pha trộn với màu hồng tươi sáng của ánh nắng. Một vài người lớn và trẻ em ngồi im lặng trên chiếc mui khum khum, quay mặt về phía đất liền. Tất cả cảnh quan được nhìn thấy qua mắt lưới và tấm lưới giữa hai khung gỗ, tạo thành hình dáng giống như cánh dơi và tất cả đường nét và ánh sáng đều hài hòa và đẹp đẽ. Vẻ đẹp đơn giản và hoàn hảo khiến tôi cảm thấy lơ đãng và có điều gì đó áp đặt trên trái tim của tôi. Tôi không biết ai đã phát hiện ra rằng đẹp là đạo đức. Trong khoảnh khắc này, tôi cảm thấy như tôi đã khám phá ra sự toàn vẹn và tìm thấy khoảnh khắc trong tâm hồn.
Tôi đặt điện thoại lên bánh xe của chiếc xe tăng hỏng và nhấn nút “kết nối” một lúc. Bộ phim hấp dẫn tôi một phần, nhưng khoảnh khắc hạnh phúc tràn đầy tâm hồn của tôi đến từ vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh vật xung quanh. Bây giờ tôi không muốn đi đâu nữa.
Nếu người bạn đồng ý không muốn ở lại chơi thêm vài ngày, tôi tin rằng trong ngày hôm nay hoặc sáng mai tôi có thể lên tàu hỏa trở về.
Một nam và một nữ bước xuống chiếc thuyền và va phải chỗ tôi đang đứng. Họ phải lội qua một đoạn bờ với nước đã ngập đến gần đầu gối. Ngay lúc đó, tôi nghe thấy người đàn ông nói lớn lên rằng: “Ngồi yên đấy. Nếu cử động làm tôi bực mình, tôi giết cả người này ngay”.
Người đàn ông phía sau có hàng lông mày rậm cháy nắng che kín hai con mắt đầy ánh mịt mù, luôn nhìn chằm chằm vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới cùng nửa thân dưới ướt sũng của người phụ nữ. Người phụ nữ đã trải qua đêm thức trắng kéo lưới, khuôn mặt mệt mỏi và tràn đầy nỗi buồn ngủ. Với thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, bà cao to và có những đường nét thô kệch. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, người đàn ông đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn. Chắc chắn họ không phát hiện ra tôi.
Một chiếc xe phá mìn của đội công binh Mỹ, chiếc xe được sơn màu vàng tươi và có kích thước lớn gấp đôi một chiếc xe tăng, đang nằm ở khoảng cách hơn 20 bước chân từ vị trí của tôi, người đang cầm máy ảnh. Hai người đi ngang qua tôi và đến gần chiếc xe phá mìn. Một người phụ nữ dừng lại, nhìn ra xa và nhìn vào mặt nước chỗ tàu đậu trong một giây, sau đó cô đưa một tay lên, có vẻ để chỉnh lại tóc nhưng sau đó lại buông xuống và nhìn xuống đôi chân.
Ngay khi nhận thấy, ông đàn ông trở nên rất tức giận với mặt đỏ như quả cà chua. Ông lấy chiếc thắt lưng của người lính ngụy ngày xưa từ trong người và dường như họ đã trao đổi hết mọi thứ cần thiết với nhau. Không còn nói thêm gì, ông giải tỏa cơn giận như lửa cháy bằng cách đánh người phụ nữ bằng chiếc thắt lưng. Ông đánh và thở hổn hển, hai hàm răng cắn chặt. Mỗi lần đánh, ông lại nguyền rủa với giọng thở dài và đau đớn: “Mày sẽ chết cho tôi. Tất cả các người sẽ phải chết cho tôi!”
Không phản đối, không la hét, cũng không cố gắng thể hiện sự bất mãn, nàng phụ nữ đứng đó với một vẻ mặt vững vàng và kiên nhẫn.
Ngạc nhiên đến mức tôi đứng nhìn ngẩn ngơ khi tất cả mọi việc xảy ra trong vài phút đầu. Sau đó, không biết từ khi nào, tôi đã đặt chiếc máy ảnh xuống và lao tới.
Cậu bé trên khu rừng xuống vừa ngủ cùng tôi từ lúc nửa đêm, và chỉ nhận ra khi một đứa trẻ nhỏ đi ngang qua trước mặt tôi. Sự tức giận khi chạy qua đã khiến cậu bé không nhìn thấy tôi, và cứ chạy thẳng một mạch. Như một viên đạn trên đường tới đích đã nhắm, cậu bé chạy qua giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy vào ông lão đang đứng đó, bất chấp tôi gọi nó vẫn không quay lại.
Bà đó cũng tương tự như đứa trẻ của tôi, và cũng như một người không thể nói. Tôi hiểu rằng đến hiện tại thì bà ta vẫn rất khỏe mạnh!
Khi tôi đến nơi, thấy thằng bé đã nắm trong tay một chiếc thắt lưng bằng da. Tôi không biết anh ta đã làm thế nào để có được nó. Thằng bé đứng thẳng và vung chiếc khóa sắt vào giữa khuôn ngực trần, cháy nắng và có những đám lông đen xoắn từ rốn lên. Một người đàn ông cố giành lại chiếc thắt lưng nhưng không thành công. Thay vào đó, ông đánh thẳng vào mặt thằng bé hai cái tát, làm thằng bé ngã xuống cát. Sau đó, ông đi lặng lẽ về phía bờ nước để trở lại thuyền. Ông không quay đầu, chỉ có lưng khum khum và cúi thấp hơn. Ông như một con gấu đi tìm nước uống, để lại những vết chân sâu trên bãi cát hoang vắng.
Có vẻ như bà đang trải qua cảm giác đau đớn, tủi nhục và xấu hổ vào thời điểm hiện tại.
Phác ơi, con à!
Bà mẹ ngồi trước mặt con nhỏ, nói lên những lời cảm động. Bà ôm con thật chặt rồi lại thả ra, và cúi đầu bắt chéo tay. Bà lại ôm con thật chặt. Tuy nhiên, đến thời điểm này, con nhỏ vẫn giữ nguyên khuôn mặt trầm lặng. Bà cảm thấy như một cơn đau đâm vào người bà và hiện giờ đang lan tỏa qua cảm xúc của bà, khiến cho những giọt nước mắt rơi xuống. Bà im lặng và nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt con như muốn lau đi những giọt nước mắt bao phủ khuôn mặt bà.
Em bé bị phụ nữ bỏ rơi ở bãi cát gần chiếc xe tăng hỏng. Người phụ nữ bất ngờ rời đi và nhanh chóng theo một người đàn ông. Cả hai quay trở lại trên một chiếc thuyền.
Cảnh tượng vô cùng đẹp và hoang sơ quay trở lại bãi cát sau khoảnh khắc đó. Âm thanh ồn ào của sóng biển vang vọng trong cõi im lặng. Trong khi đó, thằng bé đứng trơ giữa bãi đổ xe cũ vẫn cầm chiếc thắt lưng. Tôi và thằng bé đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một đoạn bờ đá vừa mới chiếc thuyền đậu lại.
Như trong truyện cổ tích huyền bí, con thuyền đánh cá bị mất tích.
Điều tôi làm là tiến về phía nó. Tuy nhiên, đứa bé không cho tôi lại gần. Thậm chí, nó thấy tôi cũng đâm ra thù ghét mình một cách vô cớ. Tôi nhận ra điều đó khi nhìn thấy đôi mắt đầy thù hận của nó.
Tại sao tôi chưa chú ý trước đây nhỉ, lần đầu tiên tôi nhận ra rằng nó là một đứa trẻ sống ở vùng biển. Tóc vàng hoe với những vết đỏ giống như một mạng lưới tơ đã bị phủ bụi và bắt đầu phát ra mùi nước biển che kín trán nhỏ và đôi mắt đầy đáng yêu, giống như đôi mắt của một chú hổ con mới lạc về từ trong rừng.
Sau vài ngày, Phác đã đối xử với tôi như một người hoàn toàn xa lạ, không bao giờ tương tác hoặc chia sẻ phòng với tôi. Mỗi khi tôi đi dạo trên bãi cát với chiếc máy ảnh, anh ta vẫn nhìn tôi với ánh mắt im lặng đầy thù hận và tôi nhận ra rằng lỗi của tôi chính là đã biết quá nhiều về cuộc sống của anh ta – một đứa trẻ lạ kỳ nhất trên đời.
Sau lần trước ba ngày, con thuyền vớt bè lại xuất hiện trong màn sương sớm của một buổi sáng. Tôi đang cố gắng tiếp cận để tiếp tục quen với chú chó sói con đó. Nhưng đến một lúc nào đó, thằng nhỏ thông minh và đáng yêu đã biến thành một đứa trẻ tàn ác và bất lương. Nó la lên trước mặt tôi bằng giọng nói cay đắng: “Hãy bỏ đi! Bỏ đi!”.
Giống như lần trước, mọi thứ diễn ra như thường. Trên bờ, tàu đâm vào đúng vị trí của ngày hôm trước. Gần đó là một bãi đỗ xe tăng hỏng, từ đó chúng tôi phải đi bộ vào.
Bà đàn bà bước xuống trước, mặt cúi gằm và bước chân nhẹ nhàng trên bãi cát, giống với lần trước. Tuy nhiên, khi ông đàn ông rời thuyền theo bà, thì ngay sau lưng ông, một cô gái khác cũng trượt xuống và bơi vào.
Chỉ mới 12, 13 tuổi là cô bé có sức khỏe dồi dào. Thân hình và mái tóc dài đều khiến cô trông như đã 15 tuổi. Có thể cô bé là người dân vùng ven biển. Cô chạy nhanh như một con vượn đen, mặc bộ quần áo đen ướt sũng, mang lại sự mềm mại. Cô bé chạy nhanh như bay đến gần thằng Phác đang đứng với đôi chân rám nắng.
Cậu bé có vẻ muốn tránh va chạm với cô bé từ đầu nhưng không thể tránh khỏi, cô bé lớn hơn và có vẻ rất cường tráng.
Trẻ em chơi đuổi nhau. Sau vài bước chạy sát bên, Phác cố gắng thoát khỏi con gái và muốn chạy đi. Nhưng con gái nhanh tay túm áo Phác và kéo lại.
Sau khi đặt thằng bé xuống bãi cát, cô bé – có lẽ là em gái – đã lấy ra một vật sáng loáng từ trong túi quần đùi của thằng bé. Đó là một con dao nhọn. Tôi chỉ hiểu điều này sau đó.
Từ một điểm dừng chân ở vùng quê, người bạn chiến đấu cũ lái xe Honda đã đón tôi. Chưa đến 24 giờ trước đó, những thợ làm thuyền đã dắt tôi từ khu vực bờ biển về đó.
Tôi bị chồng già đánh vì muốn tự bảo vệ bản thân. Người đàn ông này rất tàn nhẫn và độc ác. Tôi đã đánh trả bằng tay sắt của một người lính giải phóng, người từng cầm súng trong mười năm. Tôi đã chiến đấu trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến trên đất nước này. Dù trong bất kỳ tình huống nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh vào một người phụ nữ, dù đó là vợ của tôi và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng để bị hắn đánh.
Tôi đã được Đẩu đưa về văn phòng của anh ta. Một y tá của tòa án huyện, một phụ nữ chưa lập gia đình, đã được chỉ định bởi thủ trưởng Đẩu để đưa túi thuốc đến cho tôi. Cô ấy đã vào tuổi và có vóc dáng mũm mĩm.
Những vết thương trên trán tôi giống như những ánh sáng lung linh của một người anh hùng trước ánh mắt của cô y tá. Cô vừa băng bó các vết thương của tôi và kể lại với giọng phẫn nộ và tàn nhẫn của người đàn ông đánh cá trong khu vực này, do những tập quán truyền thống.
Đẩu vẫn không muốn từ bỏ thói quen khoe khoang, dù trong một số tình huống, nam giới có thể cần đến nó. Hãy giảm bớt sự tức giận đối với bà chị, ngay cả khi bà là chánh án của tòa án huyện.
Y tá trung niên cứ đưa mũi kéo để thoa bông cồn vào vết thương trên mặt Đẩu, tôi thà chết còn hơn phải làm đĩ già suốt đời! Anh chỉ cười nhẹ. Đẩu đã cúi đầu vào những tài liệu về vụ án hình sự lặt vặt cũng như những vụ kiện tụng và nghiêm trọng.
Các vết thương của tôi đã lành dần sau vài ngày. Tôi đã kiểm tra lại mọi bức ảnh đã chụp và cảm thấy an tâm về kết quả công việc. Tôi tin tưởng rằng nếu chiếc máy ảnh Pratica luôn đồng hành cùng tôi, tôi có thể chụp được bất kỳ bức ảnh nào về phong cảnh biển đẹp nhất từ trước đến nay.
Trước khi quay trở lại Hà Nội, tôi đã đề xuất với Đẩu rằng muốn trở lại cái nhà làm thuyền nằm giữa trời cùng với cậu bé một đêm. Tuy nhiên, Đẩu lại yêu cầu tôi ở lại thêm vài ngày với anh.
Một sáng đẹp, xe tải chở hai người phụ nữ đã đến bến tòa án.
Khi Đẩu giữ tôi lại, tôi lén cảm kích. Nếu cô gái trẻ không theo đuổi mẹ đến tòa án, tôi chắc chắn sẽ không nhận ra cô ấy – đứa con gái ướt sũng từ đầu đến chân, đã đánh nhau với Phác để lấy lại con dao găm. Tôi đã gặp lại người phụ nữ mặt rỗ hai lần trong khu vực đỗ xe tăng bị hỏng.
Trong chiếc áo cánh màu tím nhạt, một cô gái nhỏ bé đang đứng đó. Đôi mắt của cô giống như của một đứa trẻ mới lớn, cùng với chiếc thuyền mới đóng, có một cặp mắt đen. Tôi không rành về điện ảnh, nhưng tôi nghĩ rằng cô gái này có thể đóng vai như một nàng tiên cá trong tương lai. Tôi tự hỏi liệu nét đẹp trong suốt và trong trẻo của cô có phải là do địa ngục của một người phụ nữ hàng chài xấu xí và đau khổ đưa tặng.
Con gái ơi, hãy ở lại trên thuyền và nghe lời dặn của người phụ nữ. Với dáng đi chậm chạp, mệt mỏi như một người già, họ leo lên những bậc đá sắp xếp từ bờ để đến một con đường nhựa đã bị lở. Cả hai bên đường đều treo đầy lưới chài, là của của phố huyện ven biển.
Tôi nhận ra ngay bà đàn bà đang đứng trong phòng làm việc của Đẩu, với chiếc áo màu bạc xỉn vì nước mặn, một miếng vá bằng vải xanh đặt trên vai và những đốm nhỏ trên mặt có vẻ thưa thớt. Hôm nay, bà đã rời chiếc thuyền vớt bè và “đổ bộ” lên đây theo giấy triệu tập của tòa án huyện.
Đây là lần thứ hai, người phụ nữ được Đẩu mời đến làm việc trong gia đình.
Khi đứng giữa bãi xe tăng, mụ nhìn thấy rất lúng túng và sợ sệt, tuy nhiên cô ấy đã đến nhiều địa điểm công sở trước đó.
Sau khi ad tiến vào căn phòng đầy đủ bàn ghế và tài liệu, người phụ nữ đã tìm đến một nơi tĩnh lặng ở góc tường và chỉ thích sống giữa thiên nhiên.
Ngồi sau một cái bàn rộng, Đẩu đứng dậy chỉ tay vào chiếc ghế bằng mây phía trước, cố gắng tạo ra một không khí thân thiện.
Xin chị ngồi lên ghế này thay vì đứng đó, vui lòng.
Người mới táo bạo đến ngồi bên cạnh của chiếc ghế và cố gắng thu hút sự chú ý, phải nói là lần thứ hai.
Đẩu hỏi:.
Vậy chị đã suy nghĩ kỹ chưa?
Bà đàn bà nhìn lên Đẩu, sau đó lại nhìn xuống đất.
Xin chào quý khách…
Vươn lên từ ghế, anh gật đầu và tiến đến đứng vịn lưng ghế của người phụ nữ. Giọng nói của bà trở nên tức giận, khác hoàn toàn với giọng của một vị quan tòa.
Mỗi năm lại có một trận nặng và mỗi ba ngày lại có một trận nhẹ. Ông ta là người chồng độc nhất vô nhị trong cả đất nước này. Tôi không đặt câu hỏi về tội lỗi của ông ta, tôi chỉ muốn nói với chị rằng chị không thể sống chung với một người đàn ông bất lương như thế. Chị nghĩ thế nào?
Người phụ nữ đang hướng về hướng Đẩu, bất ngờ đặt tay trên vai và nhẹ nhàng lắc lư theo nhịp.
Con xin kính chào quý tòa…
Tại sao vậy?
Tòa án có thể bắt giữ hoặc phạt tù đối tượng tội phạm, nhưng đừng ép buộc họ phải bỏ đi.
Tôi đang ngồi che kín khuôn mặt sau cánh cửa vải hoa che chắn giữa không gian làm việc ngoài trời và căn phòng ngủ bên trong của Đẩu vào thời điểm đó. Ngay sau khi nghe lời của người phụ nữ, tôi cảm thấy không khí trong căn phòng ngủ của Đẩu, nơi có không gian lồng lộn gió biển, bị hút hết một cách bất thường, trở nên khó chịu. Tôi bước ra khỏi tấm màn lá.
Tôi ngay lập tức bị phụ nữ nhận ra. Bà nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị côn trùng đốt. Sau đó tôi mới suy nghĩ và nhận ra rằng bà nghĩ tòa án đã sắp xếp để tôi ngồi phía sau chuẩn bị làm nhân chứng.
Đẩu phát biểu với tư thế đầy phấn khích của một người bảo vệ công lý và kéo chiếc ghế cho tôi. Lúc đó, người đang đảm nhiệm vai trò chánh án không phải Đẩu nữa, mà là tôi, với vài vết thương trên mặt vẫn chưa lành hoàn toàn. Một người phụ nữ đang bán hàng ngoài cửa nhìn thấy chúng tôi và Đẩu nói: “Chị cứ ngồi đó nhé!”
Mặc trang phục giống như một vị quan tòa, Đẩu đã thay đổi cách gọi và nói: “Tùy bà! Chính sách chúng tôi là khuyến khích sự đoàn kết…”
Bà đang ngồi hạ thấp đầu, đột nhiên ngẩng đầu nhìn chúng tôi trực diện, với một diện mạo ban đầu ngơ ngác, từng người một.
Bất ngờ, người phụ nữ lên tiếng với giọng nghiêm túc, “Tôi cảm kích những lời của các ông. Tuy nhiên, ông không phải là những người kinh doanh nên chắc chắn không hiểu được những khó khăn mà những người kinh doanh phải đối mặt như làm ăn vất vả, đầy gian nan…”
Bà đàn bà đã thay đổi hoàn toàn diện mạo và thái độ chỉ sau vài lời chào hỏi ban đầu. Từ ngôn ngữ đến cử chỉ đều khác hẳn.
Những từ đó, đặc biệt là từ một người phụ nữ bất hạnh, không dễ nghe với chúng tôi. Dù mặt vẫn trẻ, Đẩu cũng là một quan tòa. Một người nên biết ơn và nói thật…
Chúng tôi bị thu hút bởi ngoại hình tinh tế của người phụ nữ, tuy nhiên, điều đó chỉ là bề ngoài. Bà ta nhìn về phía bờ sông bên kia con đường chính của phố huyện với ánh mắt mệt mỏi. Cô gái trẻ đang ngồi đợi bà trên chiếc ghế đá màu tím.
Một bà đàn ông bối rối, đầy lo lắng ngồi trước mặt chúng tôi. Tuy nhiên, trong nháy mắt, ông ta có vẻ đồng cảm hơn với chúng tôi. Người đó bắt đầu trình bày:
Lúc còn nhỏ, tôi đã là một cô bé xấu xí, với gương mặt tràn đầy mụn và phải trải qua một thời kỳ khó khăn. Gia đình tôi lúc đó còn khá giả và sống trong một con hẻm nhỏ. Vì nhan sắc không được đẹp, không ai trong hẻm muốn kết hôn với tôi. Tôi đã có thai với một chàng trai làm việc tại một nhà hàng chè ở hẻm hoặc đến nhà tôi mua dây để đan lưới. Người chồng tôi lúc đó là một chàng trai nóng tính, nhưng rất hiền lành và không bao giờ đánh đập tôi.
Bỗng nhiên, người phụ nữ im lặng, ánh mắt như thấu suốt cuộc đời của mình.
Chúng tôi có thể tiết kiệm chi phí hoặc mua một chiếc thuyền lớn hơn để giải quyết vấn đề. Sau khi cách mạng diễn ra, chúng tôi đã có cuộc sống tốt hơn và không còn phải chịu đói khổ như trước đây khi chúng tôi đi bắt cá trên biển trong những tháng động gió. Trước đây, chúng tôi phải ăn xương rồng luộc muối và rất nghèo khổ, còn phải trốn tránh quân lính. Tuy nhiên, vấn đề là có quá nhiều phụ nữ trên thuyền đẻ và thuyền lại quá chật. Bà đang tức giận vì điều này.
Vậy tại sao không ra khỏi nước mà ở đó? – Đẩu hỏi.
Nếu ta xây nhà ở một chỗ trên đất liền, thì không thể tiếp tục làm nghề thuyền lưới vó. Kể từ khi cách mạng diễn ra, chính quyền đã cấp đất cho những người làm nghề này, nhưng không ai muốn chuyển đi vì họ không thể từ bỏ nghề của mình.
Tôi hỏi liệu có lần nào ông ta đã đánh chị trên tàu không?
Người đàn ông già luôn giúp đỡ tôi khi tôi cảm thấy đau khổ, như một người bạn đồng hành trên con tàu. Tôi nghĩ rằng nếu ông ta uống rượu, tôi sẽ cảm thấy an toàn hơn. Khi con cái tôi lớn lên, tôi sẽ xin ông ta đưa tôi lên bờ để giúp tôi vượt qua mọi khó khăn.
Khó mà hiểu được, khó mà hiểu được! – Đẩu và tôi đồng thanh thốt lên.
Trên một con tàu không có nam giới, các anh chàng chưa bao giờ hiểu được khó khăn của phụ nữ bởi vì các anh không phải là phụ nữ.
Đứng bất ngờ, Đẩu thở dài với nỗi đau đầy trong lòng và nói rằng anh ta đã hiểu, trên thuyền cần có một người đàn ông dù hắn có tính cách ác độc, tàn nhẫn.
Đúng vậy – Người phụ nữ trả lời – Đôi khi biển động mạnh đó chứ nhỉ?
Sau một khoảng thời gian dài, mụ lại tiếp tục nói:
Các anh chiến sĩ cần thông cảm, chúng tôi cần một người đàn ông để điều khiển thuyền và chăm sóc con cái. Phụ nữ trên thuyền phải sống cho con, không thể sống cho bản thân như trên đất liền. Mong các anh chiến sĩ hiểu và đừng bắt chúng tôi bỏ điều này! Bà cười nhẹ khi nhớ đến gia đình hạnh phúc trên chiếc thuyền.
Trong suốt cuộc đời, chị đã từng có khoảnh khắc hạnh phúc nào chưa? Tôi bất ngờ hỏi.
Tất nhiên rồi, ông ạ! Thú vị nhất là khi ngồi quan sát đàn con tôi ăn no…
Trong căn phòng, Viên chánh án huyện rời khỏi chiếc bàn gấp để đến gần những đống tài liệu và giấy tờ. Đưa tay đi lại, hai tay thò sâu vào hai túi quần quân phục đã cũ. Lúc này, Đẩu trông rất nghiêm túc và suy nghĩ, một ý tưởng mới vừa vỡ ra trong đầu của Bao Công, người làm việc tại phố huyện ven biển.
Khi tôi nhắc đến Phác, người phụ nữ đã rơi nước mắt. Nhưng tình yêu và đau khổ, cũng như sự sâu sắc trong việc hiểu rõ cuộc đời, có vẻ như bà không bao giờ để thể hiện rõ ràng bên ngoài. Trong đám con cái đông đúc đang sống dưới bè, bà không yêu ai hơn Phác. Người con này từ tính cách đến ngoại hình giống như được rút ra từ người đàn ông đã từng đối xử tàn nhẫn với bà, và có thể sẽ tiếp tục làm như vậy cho đến khi qua đời – trừ khi có một sự thay đổi lớn.
Vì lo lắng thằng nhỏ có thể làm điều nguy hiểm đối với cha mẹ, bà đã quyết định gửi con lên núi để cha nuôi trong nửa năm qua. Con trai được hưởng một cuộc sống tốt hơn khi ở trên thuyền với cha mẹ, nhưng khi rời khỏi đó, cậu ấy luôn trở về. Cậu ấy đã nói với các thợ đóng tàu rằng nếu cậu ấy vẫn còn ở dưới đáy đại dương này, thì mẹ của cậu ấy sẽ không bị đánh.
Trong lúc Đẩu đang gặp một người lớn để giáo dục, tôi đã quay trở lại xưởng đóng tàu vào chiều hôm đó. Mặc dù Phác đã không có mặt, nhưng cả bãi cát và vùng đất ngập nước trông trống vắng hơn bao giờ hết. Vào buổi tối, những đàn chim di cư tiếp tục vỗ cánh bay qua vùng đất ngập nước. Tôi đã mang theo chiếc máy ảnh và đi lang thang cho đến tận đêm muộn, khi chân tôi đã mỏi mệt. Cuối cùng, tôi đã ngồi bên một ngọn lửa. Nhím phoi đã được bào bắt và đốt cháy một vài mẩu gỗ cưa từ chiếc tàu mới được vớt lên sau khi tàu đắm trong một vụ va chạm vào năm ngoái.
Những đám mây u ám chồng chất trên bề mặt biển đen tối, và biển bắt đầu phát ra tiếng hét thảm thiết, những đợt sóng vỗ đầu đầy bạc tại vùng ngoại ô cồn lên cao như những ngọn núi tuyết trắng, gần đến lúc trời sáng trở gió đột ngột.
Nằm ở giữa cơn sóng, Duy vẫn có thể nhìn thấy một chiếc thuyền nhỏ đang neo đậu, trong khi các tàu thuyền khác đã tiếp cận bờ để tránh cơn sóng lớn.
Xung quanh chiếc xe Reo mới đậu trên rừng xuống, gió thổi rất to và chưa cắt hết cây. Bên bếp lửa giữa trời, ông lão làm nghề sơn tràng vẫn đang ngồi, đã qua sáu mươi tuổi nhưng vẫn đặt hai con mắt đầy lo lắng nhìn ra ngoài mặt biển, nơi có chiếc thuyền.
Sau khi sống tại nhà ông lão và giúp ông xoong cơm, tôi quay lại và thấy những ngọn lửa đỏ rực bay lượn xung quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Cái bếp đang bị gió thổi tung khắp bãi cát. Tôi đã la hét lên.
Chiều nay có thể sẽ có gió mạnh cấp 11 phải không?
Ông cụ nói thầm, vẫn không dời mắt khỏi con thuyền đang đối đầu với những cơn sóng dữ giữa đại dương. – Đúng vậy, đúng vậy… !
Tôi đã chọn một tấm ảnh để mang về và trưởng phòng rất hài lòng với tôi.
Trong các gia đình có đam mê nghệ thuật, bức hình của tôi vẫn được treo ở nhiều nơi, không chỉ trong bộ lịch năm đó mà mãi mãi sau này. Mặc dù là bức ảnh đen trắng, nhưng mỗi khi nhìn kỹ, tôi vẫn thấy cái tông hồng của ánh sương mai lúc đó tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng. Nếu nhìn cẩn thận, tôi luôn thấy người phụ nữ đang bước ra khỏi bức ảnh, một người phụ nữ vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch trên lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa dưới thân ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Bà đi bước chầm chậm, bàn chân vững chắc trên mặt đất, hòa nhập vào đám đông.
Một vài thông tin về tác giả và tác phẩm.
1. Người sáng tác.
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) sinh ra tại làng Thơi, thuộc xã Quỳnh Hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Vào đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội và theo học tại trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn.
Từ năm 1952 đến năm 1958, ông đã làm việc và tham gia chiến đấu tại Sư đoàn 320.
– Năm 1963, Nguyễn Minh Châu về Phòng Văn nghệ quân đội, sau đó chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Năm 2000, ông đã được trao Giải thưởng về Văn học Nghệ thuật mang tên Hồ Chí Minh.
Một số tác phẩm đáng chú ý:
- Tiểu thuyết: Nơi đầu sông, Dấu vết của người lính, Ngọn lửa bùng lên từ những ngôi nhà …
- Bộ sưu tập truyện ngắn bao gồm các tác phẩm: Người phụ nữ trên chuyến tàu cao tốc, Bến quê…
- Những tác phẩm dành cho trẻ em bao gồm Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Đảo đá kỳ lạ…
- Bài phê bình: Tờ giấy trước ánh đèn.
2. Tác phẩm nghệ thuật.
Mục Lục
Xuất xứ
Tác phẩm ngắn ”Chiếc thuyền ngoài xa” được chọn từ tập truyện cùng tên của tác giả Nguyễn Minh Châu.
3. Cách sắp xếp các thành phần.
Phần 1 (từ đầu đến ”con thuyền bị mất”): Hai khám phá của họa sĩ Phùng.
Tiếp tục từ phần 2 đến “vượt qua khó khăn giữa đại dương”: Câu chuyện nói về một người phụ nữ đang làm công việc đánh bắt hải sản.
Phần còn lại của bộ lịch năm đó bao gồm việc chọn một tấm ảnh.
4. Tóm lược.
Phùng Anh, một nhiếp ảnh gia từng tham gia chiến tranh chống Mỹ, được cử xuống bờ biển để chụp ảnh sáng sớm. Anh đã bắt được khoảnh khắc tuyệt vời. Tuy nhiên, anh cũng đã vô tình chứng kiến một cảnh tượng đáng sợ của cuộc sống. Một người chồng đã đánh đập vợ một cách dã man và đưa con của họ vào cuộc để bảo vệ mẹ. Đó lại là cảnh tượng anh đã mơ thấy chỉ vài phút trước đó. Anh đã chia sẻ câu chuyện với Đẩu, bạn của anh và cũng là chánh án tòa án huyện. Hai người đồng ý với nhau rằng cách giải quyết tốt nhất là khuyên người vợ ly hôn. Tuy nhiên, tại phiên tòa, khi nghe lời cầu xin và tâm sự của người vợ, cả hai đã hiểu rằng không phải tất cả các vấn đề đều có thể giải quyết bằng luật pháp. Cuối cùng, Đẩu đã đi gặp người chồng đã đánh vợ và Phùng đã gặp Phác trên thuyền. Sau đó, anh trở về phòng văn hóa và suy nghĩ về bức ảnh của mình.
5. Phương thức diễn đạt: Tự thuật.
Thể loại: Truyện ngắn.
7. Cách kể chuyện: Sử dụng ngôi thứ nhất.
8. Giá trị của nội dung.
Trong tác phẩm ngắn ”Chiếc thuyền ngoài xa”, câu truyện về một tác phẩm nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau nó đã đưa ra một bài học quý giá về cách tiếp cận cuộc sống và con người. Chúng ta nên đánh giá với nhiều góc độ, nhiều phương diện và không đưa ra nhận xét về con người hay vật thể chỉ dựa trên vẻ bề ngoài của chúng.
Một vấn đề liên quan đến nghệ thuật cho người nghệ sĩ đã được đề cập trong bức ảnh nghệ thuật. Điều này yêu cầu phải đối diện với thực tế để có thể hiểu sâu sắc về cuộc sống thay vì chỉ nhìn nó theo một cách lạc quan. Nghệ thuật cần phải thể hiện đúng ý nghĩa thực của nó bằng cách giảm bớt khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra một thách thức cho nghệ thuật.
9. Giá trị tác phẩm nghệ thuật.
Tác giả đã tạo nên một cốt truyện độc đáo bằng cách khéo léo tạo ra tình huống nghịch lý giữa con thuyền ở xa và gần, giúp cho người đọc cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trong câu chuyện.
Sử dụng kết hợp phương pháp miêu tả nhân vật và tình tiết hấp dẫn, cùng với sự sáng tạo và linh hoạt trong lời văn, tác phẩm đã thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của mình.
Phù hợp với tình huống nhận thức, cách nói của Nguyễn Minh Châu là trầm tư, suy nghĩ và bồn chồn. Điều này cũng tạo nên tính đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của ông.
Dàn ý chi tiết Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa
1. Bắt đầu đoạn văn.
Cung cấp thông tin về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
Với nhiều đóng góp, Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi bật của văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn quan tâm đến cuộc sống con người cũng như sứ mệnh của người nghệ sĩ.
Về sự tương quan chỉ cách nhau một ranh giới rất mong manh giữa thực tế cuộc sống và nghệ thuật, tác phẩm truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa chứa đựng những giá trị nhân văn, những triết lý sâu sắc về cuộc sống con người bằng góc nhìn đa chiều, phong phú của tác giả.
2. Thân thư.
* Cốt truyện đầy bất ngờ và hai khám phá của Phùng:
Tìm thấy cảnh đắt giá cho:
Bức họa mực tàu của nghệ sĩ thời xưa – Hình ảnh chiếc thuyền đánh cá cập bến dưới ánh nắng mờ ảo và hồng hồng.
Sự hoàn hảo và toàn diện của vẻ đẹp khiến Phùng cảm thấy lúng túng, kinh ngạc và hạnh phúc.
Vẻ đẹp của nghệ thuật là vẻ đẹp của phẩm chất.
Phát hiện thứ hai – Sự trái ngược của cuộc sống, sự khó coi sau sự hoàn mỹ, tất cả đều là những trở ngại.
Người phụ nữ xấu ngoài ra khỏi đó.
Hình ảnh người chồng bạo hành vợ, hình ảnh con trai đánh cha, hình ảnh cha đánh con.
Giới hạn giữa nét tuyệt đẹp hoàn hảo, toàn diện và sự thật khắc nghiệt xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một lớp vải mỏng manh, Phùng vỡ lẽ hóa ra chúng không thể chịu đựng được sự phá hủy của hiện thực cuộc sống đầy tai hại.
Nhân vật nữ chủng tộc làng chài là trung tâm của câu chuyện.
Ba mệt mỏi to lớn chị đang gánh vác, đại diện cho đau thương của phụ nữ đang sinh sống tại miền biển là:
Vẻ ngoài không đẹp: Chiều cao lớn, vóc dáng khồng điệu, khuôn mặt nhiều khuyết điểm,…
Bần cùng, đông đảo con cá và không gian hẹp chật là điều bình thường.
+ Bị bạo hành gia đình, phải nhẫn nhục chịu đựng, tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần dai dẳng.
Tình đẹp của phụ nữ đều ẩn chứa sau ngoài hình xấu xí, khó khăn.
Sự khoan dung, cảm thông và biết ơn đối với người chồng nghèo khổ, luôn chấp nhận trách nhiệm cho bản thân.
Sống chỉ để nuôi dạy con cái, tình cảm giữa mẹ và con rất quan trọng, lòng hy sinh cao quý, luôn ao ước cho gia đình hòa thuận và ấm áp.
Phùng và Đẩu có cách nhìn cuộc sống ngây thơ và đơn giản, nhưng đồng thời cũng thấu hiểu và cảm nhận sâu sắc về tình huống thực tế. Sự thấu tình và tâm lý của họ giúp họ nhìn nhận và hiểu rõ hơn về cuộc sống.
* Các nhân vật Phùng và tấm hình đã được lựa chọn.
Đối với địa điểm là tòa soạn, Nghệ sĩ Phùng vẫn giữ bức hình đó, và thực sự bức hình đã được lựa chọn và trưng bày ở rất nhiều nơi, đặc biệt là trong các gia đình yêu nghệ thuật.
Phùng luôn cảm thấy rằng trong tấm hình của mình:
Bước ra khỏi bức tranh, người phụ nữ khốn khổ biểu hiện cho cuộc sống thực tế với “sắc hồng của bình minh” là biểu tượng của nghệ thuật.
Rời xa khỏi cuộc sống không thể thiếu được nghệ thuật chân chính. Vì đời sống, nghệ thuật chính là bản chất của cuộc sống.
Cần nhận thức rằng lòng tốt và pháp luật không đủ để giải quyết vấn đề đói nghèo và bạo lực gia đình của con người.
Sử dụng quan sát đa chiều để phân tích và khám phá cách đánh giá toàn diện vấn đề, không thể dựa chỉ vào quan điểm hạn hẹp đơn phương.
* Một số nhân cách khác.
Chủ tịch Đẩu:
Là người đại diện cho sự công lý và pháp luật, có tấm lòng nhân ái và sẵn sàng bảo vệ tính công bằng.
Tôi chưa thực sự trải nghiệm đời sống của người dân, chỉ mới tìm hiểu về cuộc sống của một phụ nữ sống ở vùng biển.
Nhân vật đàn ông trong vai trò chồng.
Ban đầu được miêu tả là một ”chàng trai có tính cách mạnh mẽ nhưng rất hiền lành”.
Một người đàn ông vô lễ, tàn ác, ích kỷ.
Một người bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh khó khăn.
Đứa trẻ Phác.
Một cậu bé đầy tình cảm, tràn đầy tình yêu thương dành cho người mẹ của mình.
Trong “thực tế”, chưa có ai trong số Đẩu, Phùng và nó hiểu được, nhưng giống như cha của nó, chúng chỉ thấy sự tàn nhẫn và độc ác của ông ta.
Hình ảnh đặc trưng của trẻ em trong các gia đình bị bạo hành.
3. Kết thúc bài viết.
Giá trị của nội dung:
Hiểu rõ rằng “Không có gì hoàn hảo trên đời, mọi việc đều có khó khăn”, Nguyễn Minh Châu không tin vào những thứ hoàn hảo bề nổi và biết rằng chúng chỉ là hư ảo và sau đó sẽ trở thành những sự thật khó chịu ẩn sâu.
Không nên theo đuổi những nét đẹp chỉ hào nhoáng mà thiếu tinh thần. Người nghệ sĩ cần có một cái nhìn phong phú, sâu sắc để đánh giá được những giá trị đạo đức và nhân văn của sự đẹp.
Tạo dựng hình tượng con thuyền ngoài khơi với giá trị tượng trưng cao, chọn góc quan sát tinh tế, giàu suy nghĩ và ngôn ngữ kể chuyện khách quan, trung thực, sức thuyết phục là giá trị nghệ thuật của đoạn văn.
Ý kiến của tôi về truyện ngắn “Chiếc thuyền xa bờ”.
Sơ đồ tư duy Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

Bài văn mẫu Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 1
Người tiên phong cho thời kì đổi mới văn học là Nguyễn Minh Châu, người luôn quan tâm đến số phận của con người và trách nhiệm của nghệ sĩ đối với những số phận đó trong suốt cuộc đời. Với tài năng của mình, ông đã mở ra một thời kì mới cho văn học sau những năm 80. Trong giai đoạn này, ông đã khám phá con người trong cuộc sống và trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là minh chứng cho những chủ đề và trách nhiệm của nghệ sĩ đối với xã hội.
Xuất hiện vào thời điểm lịch sử đặc biệt, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được sáng tác vào tháng 8/1983. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất và độc lập, nhưng nhiều vấn đề xảy ra do tác động của chiến tranh. Văn học phải tiến bộ để phù hợp với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Tác phẩm này ra đời như một sự phản ánh khách quan của thực tế.
Tác phẩm bắt đầu bằng một bức tranh đẹp tuyệt của nghệ sĩ Phùng. Điều này mang tính khám phá về nhận thức để chúng ta có thể nhìn nhận cuộc sống một cách sâu sắc hơn. Vào năm đó, Phùng được cấp trên giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh về thuyền và biển cho bộ lịch. Để hoàn thành tác vụ, anh có cơ hội đến vùng biển kề bên với người bạn. Tại đó, anh đã tình cờ tìm thấy một bức tranh rực rỡ với hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Tuy nhiên, anh đã phát hiện ra hai điều bất thường trong bức tranh đó.
Phong cảnh hoàn hảo tựa như một bức tranh đầu tiên được tìm thấy. Vẻ đẹp trên bề mặt biển trong sương là khám phá đầu tiên của nghệ sĩ Phùng. Cảnh tàu thuyền và biển được đặc biệt chú ý trong bức tranh. Chứng kiến một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, nghệ sĩ cảm thấy rất vui mừng và hạnh phúc. Nó giống như “một bức tranh tàu mực của một họa sĩ thời đồ đá”. “Đầu tàu thuyền được in một cách mơ hồ và lòe nhòe… Chiếu sáng”. Dần dần, vài nhân vật lớn và nhỏ bước vào bờ biển.

Một sắc đẹp hoàn toàn từ sự kết hợp giữa đường nét và màu sắc ánh sáng đã hình thành một khung cảnh tuyệt đẹp. Tác giả đã miêu tả nó như là một cảnh “siêu phàm”, một vẻ đẹp hiếm có trong cuộc sống. Nghệ sĩ Phùng cho rằng đẹp chính là đạo đức, và khi đứng trước bức tranh mực tàu ấy, anh cảm thấy rất bối rồi. Trong tâm hồn anh, có một cảm giác bóp nghẹt, đó chính là khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc đời. Anh đã nhanh chóng mang máy ảnh lên để ghi lại khoảnh khắc đó và liệu rằng sự tinh khiết của cảm xúc trong anh đã được lọc qua vẻ đẹp ấy?
Cuộc sống khắc nghiệt và đầy đau khổ của những người ở đây, đặc biệt là phụ nữ hàng chài, được nhìn thấy mặc dù xung quanh có khung cảnh đẹp đẽ. Phùng đã nhận ra điều này và chứng kiến một cảnh tượng đáng sợ. Một người đàn ông hung dữ và một người phụ nữ xấu xí đã xuất hiện, cho thấy sự khổ cực mà họ phải chịu đựng. Phụ nữ này mặc quần áo rách nát, khuôn mặt thì trầm uất. Người đàn ông cũng không khác gì. Ông ta đã dùng thắt lưng đánh vào người phụ nữ đó, khiến cô khốn khổ. Thằng bé Phác, là con của hai người này, đã nhảy vào đánh vào mặt cha mình và thậm chí muốn giết ông ta. Sau đó, người đàn ông đã bỏ đi trên thuyền. Những giọt nước mắt của phụ nữ hàng chài nhỏ xuống và lấp đầy những vết thương chằng chịt trên khuôn mặt cô.
Phùng nhận ra rằng cuộc sống không đơn giản xoay quanh một hướng mà chứa nhiều sự tương phản khác nhau với hai phát hiện đó. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt trái ngược, đẹp và xấu, tốt và xấu. Nhà văn khẳng định rằng không nên nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Khi đánh giá cuộc sống, cần phải có cái nhìn toàn diện từ nhiều góc độ.
Phùng đã thấy tình huống của người phụ nữ và chia sẻ với bạn của mình. Anh ta mong muốn chính quyền địa phương có thể giải quyết vấn đề để giúp người phụ nữ thoát khỏi người chồng bạo lực. Người phụ nữ làm nghề bánh mì đã đến tòa án huyện theo lời mời. Ban đầu, chị ta rất sợ hãi và khép nép. Tuy nhiên, sau khi Đẩu giúp đỡ và giải thích cho chị, chị bỗng trở nên bình tĩnh và không còn khép nép nữa. Chị ta đã chia sẻ với Phùng và Đẩu về tâm sự và suy nghĩ của bản thân mình. Điều này đã giúp cho Phùng và Đẩu hiểu rõ hơn về cuộc sống.
Cuộc đời của phụ nữ trước đây là một người con nhà khá giả. Tuy nhiên, sau một trận lụt lớn, bà đã trở nên bất hạnh và không ai muốn lấy bà. May mắn thay, người chồng của bà là một người làm vườn và đã cứu vớt cuộc đời bà sau khi cha mẹ bà qua đời. Mặc dù bị lăng mạ và hành hạ thường xuyên, bà vẫn không muốn bỏ chồng vì ông ta là người động viên tinh thần lớn nhất của gia đình. Bà đánh giá việc bị lăng mạ là điều bình thường. Dù cuộc sống vật chất và tinh thần đều khó khăn, gia đình bà vẫn sống cùng nhau trên một chiếc thuyền nhỏ, chiếc thuyền đó là phương tiện kiếm sống cũng như nhà của họ. Bà không thể bỏ chồng vì còn phải nuôi dạy con cái và có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ trên thuyền. Bà cảm thấy có lỗi vì đã sinh nhiều con.
Bà là một phụ nữ không có học vấn nhưng lại có trái tim rộng lượng, là một biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Bà đã hy sinh bản thân để nuôi dưỡng chồng và con cái, cũng như để giữ cho chồng không bị tức giận. Mặc dù cuộc sống khó khăn đã khiến cho người chồng dịch chuyển từ một người hiền lành sang một người khác, điều này cho thấy rằng cuộc sống có thể thay đổi con người rất nhiều.
Ban đầu, Đẩu và Phùng cảm thấy không hài lòng với những lời đó, nhưng sau đó họ nhận ra rằng có nhiều điều khác biệt so với kỳ vọng ban đầu. Cuộc sống của họ không chỉ đơn thuần là để sống cho riêng mình mà còn đóng vai trò quan trọng trong một câu chuyện lớn hơn. Đó chính là giá trị thực sự của cuộc sống. Hai người đàn ông đã phải đối mặt với sự phát triển của một phụ nữ từ nhút nhát đến sâu sắc và cuối cùng họ buộc phải để cô ấy trở về với gia đình của mình.
Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” cho thấy rằng câu chuyện kết thúc bằng việc một tấm lịch năm ấy xuất hiện một màu hồng nhỏ trong bức tranh thuyền và biển Phùng. Có thể đó là người phụ nữ hàng chài, bà hiện lên với vẻ đẹp của một tâm hồn chịu thương chịu khó hi sinh cho con mình. Tác giả Nguyễn Minh Châu truyền tải thông điệp cho người đọc rằng cần nhìn mọi thứ theo nhiều góc độ và đấu tranh chống lại bạo lực gia đình.
Bài văn mẫu Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa – mẫu 2
Tác giả quân đội Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những nhà văn tiên phong của văn học Việt Nam trong giai đoạn cải cách (cuối thế kỉ XX).
Bằng cách thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Minh Châu đã sáng tác những tập truyện ngắn đầy ấn tượng như “Người đàn bà trên chuyến tốc hành”, “Bến quê”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cỏ lau” với phong cách tự sự – triết lí.
Được viết vào năm 1983 và xuất bản vào năm 1987, tác phẩm “Chiếc tàu ngoài xa” là một truyện ngắn. Tác giả đã miêu tả tài hoa của nhân vật như nhiếp ảnh gia Phùng, chánh án Đẩu, phụ nữ thuyền chài có khuôn mặt rỗ và cậu bé Phác, để lại cho độc giả nhiều ấn tượng về sự lãng mạn của nghệ thuật và sự thật đời thường.
Khu vực biên giới nơi diễn ra trận đánh lịch sử của Nghệ sĩ Phùng, anh đã mang theo chiếc máy ảnh quay trở lại để chụp ảnh. Sáng sương phủ kín, một cảnh tượng mà anh đã cố gắng bắt giữ trong nhiều ngày nhưng vẫn chưa thành công. Anh hào hứng muốn lưu giữ cảnh tàu đánh cá tràn về bờ vào lúc bình minh trong tờ lịch tháng bảy năm sau. Sáng nay, anh đã được may mắn gặp phải một khung cảnh đẹp tuyệt vời mà có lẽ suốt cả cuộc đời chụp ảnh, anh chưa bao giờ nghĩ đến. Đó là cảnh thuyền in dấu mờ trong màn sương trắng như sữa, pha trộn với màu hồng của ánh nắng rực rỡ. Và những người lớn và trẻ em cùng nhau ngồi yên lặng trên chiếc thuyền, nhìn về hướng bờ. Tất cả những khung cảnh này được nhìn thấy qua lưới và tấm vải lưới đặt giữa hai xương vó, giống như hình dáng của một con dơi.
Video bài văn mẫu Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa
Trước mắt Phùng, một người nghệ sĩ, là một tác phẩm nghệ thuật cổ điển, đó là điều anh nhìn thấy. Trong lòng anh, có rất nhiều cảm xúc, anh cảm thấy rất xúc động và bối rối, trái tim anh cũng cảm thấy bị bóp nghẹt. Trước tác phẩm nghệ thuật đẹp như vậy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy rất hạnh phúc. Lần đầu tiên, anh hiểu rằng đẹp là giá trị đạo đức. Trong giây phút bối rối đó, anh đã tìm thấy chính mình. Tình yêu đối với nghệ thuật đã làm cho tâm hồn anh trở nên thanh lọc và tốt đẹp hơn. Khi Phùng đã chạm tay vào tác phẩm nghệ thuật, anh đã chụp lại hình ảnh đó và lưu trong máy ảnh. Cảm giác hạnh phúc của anh đến từ sự kết hợp giữa tâm hồn và tác phẩm nghệ thuật đẹp tuyệt vời. Cần nhớ rằng Phùng không ngồi ở lầu hoàng hạc hay nơi nào tương tự, mà chỉ ngồi ở một bãi biển đầy tàn tích chiến tranh. Phùng phải rúc vào bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa. Chi tiết này cho thấy rằng, mặc dù bãi biển và con thuyền trong bình minh rất đẹp, nhưng vẫn còn những vết thương chiến tranh đang in sâu trong lòng người dân. Chỉ bởi vì tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, Phùng mới có thể biến tất cả thành một tác phẩm nghệ thuật đẹp và thần tiên. Tuy nhiên, sau đó anh sẽ phải đối mặt với sự thực.
Một sự cố đáng tiếc đã xảy ra. Một tình huống đầy bi thương, khi một chiếc thuyền đã va chạm thẳng vào bờ, ngay trước nhà của nhiếp ảnh gia. Phùng đã chứng kiến và tham gia vào những câu chuyện đau lòng và oan uổng. Một người đàn ông và một người phụ nữ đã rời khỏi thuyền và leo qua đống đổ nát để đến bãi cát trắng hồng, giống như một bức tranh vỡ nát. Một giọng nói rất khó nghe vang lên: “Cứ ngồi im đấy, nếu động đậy tôi sẽ giết cả hai ngay bây giờ”. Người phụ nữ, cao to và thô lỗ, mệt mỏi và tái nhợt ngoài 40 tuổi. Người đàn ông đi sau có lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, mái tóc bù xù, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rũ xuống. Lão đàn ông luôn nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân ướt sũng của người phụ nữ với ánh mắt đầy độc ác.
Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà ”đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng” (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông ”trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay”, hắn lồng lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, ”quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hắn ”vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”. Lão ”trút cơn giận như lửa cháy” vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: ”Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão. Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà ”cam chịu đầy nhẫn nhục”. Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh ”kinh ngạc”, ”đứng há mồm ra mà nhìn” trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ ”như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loần xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát. Tiếng gọi: ”Phác, con ơi!” Của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà ”ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy… Và hình ảnh thằng nhỏ ”lặng lẽ đưa ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ” lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để chặn bàn tay của con người thú. Phùng ”ngơ ngác nhìn” ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra ”như trong truyện cổ quái đản”, chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tâm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bối hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!
Đây có thể được xem là một chuyến đi đầy ý nghĩa với Phùng. Con tàu nghệ thuật ở ngoài xa, che giấu trong sương mù. Tuy nhiên, sự thật của cuộc sống lại rất gần và trần trụi. Nhờ đó, ta càng hiểu rõ rằng sự thật trong cuộc sống không phải lúc nào cũng giống như nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đã đưa ra bài học về cái nhìn đa chiều và khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với những nghệ sĩ có bản lĩnh thực sự thông qua “Con tàu nghệ thuật ở ngoài xa”.
Giải thích cho Phùng và Đẩu là câu chuyện về một phụ nữ làng chài tại trụ sở tòa án huyện, đã giúp chúng ta hiểu rõ thực tế khắc nghiệt của bạo hành gia đình và tình trạng tâm lý phụ nữ trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc đời.
Ban đầu, phụ nữ có khuôn mặt không đều chỉ dám ngồi ở góc phòng. Khi Đẩu mời, bà mới “nhút nhát” đến ngồi vào mép ghế và cố gắng thu hút sự chú ý. Bà nhìn lên rồi “hạ mặt xuống” khi nghe Chánh án nói. Có thể đây là lần đầu tiên bà đến cơ quan chính quyền, vì vậy bà lo sợ như vậy. Bà chắp tay vái gọi Đẩu là: “Con lạy quý tòa…”. Bà nhấp nhổm xoay người như bị kiến đốt. Nghe bà van xin, tôi cảm thấy đau lòng: “Quý tòa có thể bắt tôi tội, phạt tôi tù, nhưng đừng bắt tôi bỏ nó…”. Mặc dù sống với một kẻ vô dụng, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, bà vẫn van xin quý tòa “đừng bắt tôi bỏ nó”. Chánh án Đẩu không hiểu được tình cảnh đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng cảm thấy “khó chịu quá!”.
Người phụ nữ này bất ngờ khi nghe vị trưởng tòa gọi bằng “bà” và nói rằng chủ trương của tòa là thúc đẩy hòa giải. Cô ấy thay đổi cách gọi, tự gọi mình là “chị” và gọi Đẩu và Phùng là “chú” với tình cảm chân thành. Cô nhìn về phía hai người Đẩu và Phùng.
Bà kể về thời thơ ấu của mình và chia sẻ về việc tìm kiếm một người chồng. Dù khuôn mặt xấu xí và không ai muốn cưới, bà đã có con với một chàng trai cục tính và hiền lành. Bà chia sẻ về cuộc cách mạng và những khoảnh khắc khó khăn khi cả gia đình phải ăn xương rồng luộc chấm muối trong hàng tháng. Bà than phiền về việc gia đình nghèo khó, chiếc thuyền nhỏ bé và những rắc rối xảy ra trên biển. Bà nhấn mạnh sự khó khăn của người phụ nữ trên một chiếc thuyền khi không có đàn ông, đặc biệt là trong những thời điểm biển động mạnh. Bà cũng chia sẻ về việc chồng bỏ trốn để tránh phục vụ quân đội giả và niềm hạnh phúc khi cả gia đình sống hòa thuận và vui vẻ.
Tính kiên nhẫn, lòng hi sinh của người phụ nữ có khuôn mặt không hoàn hảo là vô cùng rộng lớn. Bà ấy chỉ mong chồng đừng đánh đập trước mặt con cái và đã cho con trai tên Phác lên rừng ở với ông nội vì sợ con trai làm điều ngu xuẩn với cha. Bà ấy đã rơi nước mắt khi nghe đến tên Phác. Chỉ khi nghe lời giải thích trung thực, ta mới có thể cảm nhận được nỗi đau khổ, tình yêu thương mãnh liệt và lòng hy sinh im lặng của người phụ nữ làng chài đáng thương. Chúng ta mới có thể hiểu được nguồn gốc của căn bệnh bạo lực trong các gia đình nghèo. Nếu chỉ đơn giản yêu cầu, chỉ cần quyết định bỏ chồng của người phụ nữ có khuôn mặt không hoàn hảo thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng nếu nhìn vào cuộc sống một cách sâu sắc, rất nhân văn, rất thực tế, chúng ta sẽ hiểu rằng cách suy nghĩ, cách sống và cách hành xử của người vợ, người mẹ trong câu chuyện là không thể khác được.
Khó để nhận biết chân tướng của một người hay một tình huống khó khăn. Hiểu được bản chất của con người, sự tốt hay xấu, cảm xúc, trải niệm và hoàn cảnh của họ thật sự là điều rất khó khăn. Câu chuyện về người phụ nữ trong tòa án huyện đã cho thấy rằng không thể đơn giản hóa nhìn nhận con người, đời sống và các tình huống xã hội. Không thể hành động quá nóng vội chỉ dựa trên định kiến và suy nghĩ cá nhân. Nếu chúng ta chỉ dựa trên suy nghĩ mù quáng và định kiến, chúng ta sẽ bị sai lầm. Chúng ta cần suy nghĩ và xem xét kỹ lưỡng với sự tình và lý và cân nhắc cả việc và người để đưa ra quyết định chính xác.
Trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”, có rất nhiều tình huống bất ngờ và hấp dẫn. Câu chuyện được thêm tính kịch tính và khắc sâu hơn khi xuất hiện các tình huống mới. Ban đầu, nhà nhiếp ảnh Phùng đã phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã chụp lại bằng máy ảnh. Hình ảnh này rất thơ mộng. Tuy nhiên, tình huống khi người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính ngụy để đánh vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu làm cho câu chuyện trở nên bi kịch đầy nước mắt. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ khi kể về sự éo le của cuộc đời và thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo đông con ở làng chài. Sự việc lão thuyền chài đánh vợ và bị thương Phùng – người dám đến can ngăn; chị gái cướp lấy con dao của em trai để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là những tình huống cực kì cay đắng và dữ dội.
Nhà họa sĩ Phùng mới nhận ra rằng nghệ thuật không thể lãng mạn hoá, tô điểm cuộc sống khi cuộc sống còn đầy những khó khăn và trắc trở thông qua các tình huống đó. Chánh án Đẩu mới hiểu rõ rằng tòa án không chỉ để thực thi công lý, pháp luật mà còn phải minh bạch và tôn trọng lòng dân, tình dân. Và mỗi cá nhân chúng ta mới thấu hiểu rằng cuộc sống đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn từ một phía, một cạnh.
Tính chân thật và giá trị nhân bản sâu sắc của truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” đã được tạo ra nhờ vào tình huống trong câu chuyện. Có thể đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam, do cuộc sống khó khăn, đói nghèo, bất tri bất giác… Theo Nguyễn Minh Châu, đây là một trong những nguyên nhân đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã đề cập trong tác phẩm “Văn chiêu hồn” hơn hai thế kỉ trước.
”Đau khổ thay đổi cuộc sống của phụ nữ.
”Cuộc đời bắt đầu từ đâu?” Là câu hỏi mà chúng ta đều muốn biết.